Phần 1
“ Kết quả chụp nhũ ảnh của bạn nghi ngờ ung thư vú “
“ Kết quả sinh thiết của bạn là ung thư vú “
Đây là những từ kinh khủng nhất khi người phụ nữ nghe bác sĩ nói mình bị ung thư vú, người bệnh bắt ấu hoang mang, lo lắng : phẫu thuật, chết chóc, thay đổi hình thể, mất bản năng giới tính. Việc giải quyết những lo âu này thuận lợi hơn bằng những thông tin và kiến thức về ung thư vú. Vì vậy, người phụ nữ có thể đưa ra những quyết định tốt nhất cho sức khoẻ của mình. Tốt nhất, những vấn đề này nên được thảo luận với bác sĩ của bạn đối với từng trường hợp cụ thể. Những thông tin sau đây nhằm giúp bệnh nhân và gia đình họ vượt qua được khó khăn lớn của bệnh ung thư vú .
Ngoài ung thư da, ung thư vú và ung thư cổ tử cung là những ung thư thường gặp nhất ở nữ giới. Ung thư vú xếp hàng thứ hai sau ung thư cổ tử cung. Ung thư vú ở nam giới chiếm tỷ lệ 0,6%. Mặc dù bài này được viết chủ yếu cho nữ, nhưng những thông tin về triệu chứng, chẩn đoán, điều trị, và cách sống cũng được áp dụng cho nam. Tuy nhiên, các chuyên gia không khuyến cáo việc sàng lọc thường xuyên cho nam giới.
Các nghiên cứu mang lại kết quả tốt trong việc phòng ngừa và điều trị ung thư vú tốt hơn, giảm tử vong và tăng chất lượng cuộc sống. Qua nghiên cứu cho thấy sự hiểu biết về bệnh ung thư vú ngày càng gia tăng. Các nhà khoa học vẫn tiếp tục tìm hiểu thêm về nguyên nhân gây ung thư vú , nghiên cứu những phương pháp mới để phòng ngừa , phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh này.
Cấu tạo vú như thế nào ?
Ung thư vú không có ý nghĩa là một bệnh, mà là một từ được dùng để chỉ những bệnh ung thư khác nhau ở vú. Mỗi loại ung thư vú xử trí và tiên lượng khác nhau. Trước khi mô tả các loại ung thư vú và phương pháp điều trị, những thông tin sau đây nên tham khảo.
Vú là một cơ quan có chức năng tạo sữa. Vú chứa những tuyến (ở các thuỳ) tạo ra sữa, và những ống (ống dẫn sữa ) dẫn sữa từ các tuyến đến núm vú. Đa số ung thư vú bắt đầu từ ống dẫn sữa hay tuyến và tên ung thư phụ thuộc vào vị trí của nguồn gốc ung thư (ví dụ carcinoma ống dẫn, carcinoma tuyến của vú) . Các tuyến và ống dẫn được nâng đỡ bởi các mô mỡ và dây chằng xung quanh.
Có nhiều mạch máu và mạch bạch huyết trong vú. Mạch bạch huyết là những sợi mỏng nhỏ giống như mạch máu, chúng không chứa máu nhưng hấp thu và chứa dịch mô. Dịch này cuối cùng được đưa vào dòng máu. Dịch mô vú được những kênh bạch huyết dẫn lưu hạch bạch huyết ở nách. Hạch bạch huyết là những tuyến nhỏ mà sợi bạch huyết đi xuyên qua, nó lọc dịch bạch huyết và có thể ngăn lại sự lan rộng tế bào ung thư hay vi khuẩn có trong dịch bạch huyết, ngăn không cho tế bào ung thư hay vi trùng đi xa hơn. Những hạch bạch huyết này không hoàn toàn ngăn chặn những tế bào ung thư đã thấm qua mạch bạch huyết và từ đó nó có thể lan rộng đến những phần khác của cơ thể. Một khi tế bào ung thư vào mạch máu hay bạch huyết thì nó có khả năng di căn đến bất kì nơi nào trong cơ thể. Ung thư vú thường di căn đến : xương, phổi, gan và não.
Ung thư vú còn được phân loại xâm lấn hay không – xâm lấn. Thể xâm lấn, ám chỉ khả năng ung thư lan rộng, nó cơ thể phát triển trực tiếp trong những phần khác của cơ thể hay du hành trong máu , dẫn lưu dịch bạch huyết đến những vùng này. Thể không xâm lấn (ung thư tại chỗ) là ung thư được xác định bằng tiêu chuẩn vi mô khi không có sự di căn.
Diễn tiến ung thư ?
Ung thư là nhóm bệnh mà bắt nguồn từ tế bào, là đơn vị sống của cơ thể . Để hiểu được ung thư, cần biết điều gì xảy ra khi tế bào bình thường trở nên ung thư hoá.
Cơ thể được cấu tạo bởi nhiều loại tế bào . Bình thường , tế bào phát triển và phân chia khi cơ thể có nhu cầu. Trình tự này giúp cơ thể khoẻ mạnh. Tuy nhiên, thỉnh thoảng tế bào vẫn tiếp tục phân chia mà cơ thể không có nhu cầu tế bào mới. Chúng tạo nên một khối mô gọi là u hay bướu . Bướu có thể lành tính hay ác tính.
Bướu lành không phải ung thư. Chúng thường được cắt bỏ, và hầu như không bị tái phát trở lại. Các tế bào của bướu lành không lan rộng. Quan trọng nhất, bướu vú lành thì không đe doạ cuộc sống.
Bướu ác tính là ung thư. Các tế bào bướu thì bất thường, chúng phân chia không có kiểm soát hay trật tự, và có thể xâm lấn hay gây tổn thương mô hay cơ quan kế cận. Hơn nữa, tế bào ung thư có thể rời khỏi bướu ác tính vào dòng máu hay hệ bạch huyết. Theo cách đó, chúng có thể lan rộng từ ung thư nguyên phát để tạo các bướu mới ở các cơ quan khác. Sự lan rộng được gọi là di căn.
Khi ung thư bắt đầu từ mô vú và lan rộng ra ngoài vú, tế bào ung thư thường được tìm thấy trong hạch bạch huyết ở nách. Nếu ung thư đã đến hạch bạch huyết nách có nghĩa là tế bào ung thư có thể lan khắp cơ thể - hạch bạch huyết khác và cơ quan khác như xương, gan, phổi. Khi ung thư lan từ vị trí ban đầu đến một phần khác của cơ thể, bướu mới có cùng loại tế bào bất thường và cùng tên với bướu nguyên phát. Ví dụ, ung thư vú di căn đến não, tế bào ung thư trong não thực chất là tế bào ung thư vú, bệnh là do ung thư vú di căn chứ không phải ung thư não.
Ai có nguy cơ bị ung thư vú ?
Nguyên nhân chính xác của ung thư vú chưa được biết. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư vú gia tăng ở những phụ nữ lớn tuổi, và thường hiếm khi gặp ở nữ dưới 35 tuổi. Bệnh hay xảy ra ở những phụ nữ trên 50 tuổi, nguy cơ càng cao ở nữ trên 60. Hơn nữa, ung thư vú xảy ra ở nữ da trắng nhiều hơn nữ Châu Phi và nữ Châu Á.
Nghiên cứu cho thấy những yếu tố sau làm tăng khả năng mắc ung thư vú :
* Tiền sử bị ung thư : những phụ nữ đã bị ung thư vú rồi thì nguy cơ mắc ung thư vú ở vú còn lại cao hơn người bình thường.
* Tiền sử gia đình: Một người phụ nữ có nguy cơ ung thư vú cao nếu mẹ, chị, con gái họ bị ung thư vú, đặc biệt nếu những người này mắc bệnh lúc tuổi còn trẻ.
* Rối loạn đã dược xác định: với chẩn đoán tăng sản không điển hình hay carcinoma tại chỗ làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú .
* Sự biến đổi di truyền: các gen trong tế bào mang thông tin di truyền thừa hưởng từ cha mẹ.Yếu tố di truyền chiếm từ 5%-10% tất cả ung thư vú . Vài gen đột biến có liên quan đến ung thư vú phổ biến ở vài nhóm dân tộc.
Một số gen thay đổi ( như BRCA 1, BRCA 2,…) làm tăng nguy cơ ung thư vú . Trong những gia đình có nhiều người mắc ung thư vú, kiểm tra gen thỉnh thoảng cho thấy có sự thay đổi đặc biệt làm tăng nguy cơ ung thư vú . Bác sĩ có thể đề nghị phương pháp nhằm phòng ngừa hay kéo dài sự sống cho bệnh nhân bị ung thư vú, phát hiện sớm ung thư vú ở những phụ nữ có đột biến gen. Những phụ nữ có gen đột biến liên quan ung thư vú hay đã bị ung thư vú một bên thì tăng nguy cơ mắc ung thư vú ở bên còn lại, ung thư buồng trứng, và có thể những mắc ung thư khác. Nam giới cũng vậy.
Nhiều xét nghiệm có thể phát hiện những gen bị biến đổi. Những xét nghiệm này thường làm ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư.
Những yếu tố phối hợp làm tăng nguy cơ ung thư vú :
Estrogen. Nhiều chứng cứ gợi ý thời gian cơ thể chịu sự tác dụng estrogen càng kéo dài (estrogen do cơ thể tạo ra , hay do thuốc, hay được phóng thích từ một nốt của cơ thể) thì dễ bị ung thư vú .Ví dụ, nguy cơ bệnh tăng thêm phần nào ở những người kinh nguyệt bắt đầu sớm( trước 12 tuổi), mãn kinh muộn( sau 55 tuổi), không có con, hay trị liệu bằng hormon trong thời gian dài. DES (diethylstilbestrol) là một dạng estrogen tổng hợp được sử dụng khoảng năm 1940-1971. Thai phụ thường sử dụng DES trong suốt thai kì để phòng ngừa biến chứng được xác định có nguy cơ ung thư vú khá cao. Nguy cơ này không hiện diện ở con gái họ, đã tiếp xúc với DES trước khi chào đời. Tuy nhiên, vẫn cần chú ý khi những bé gái này đến khoảng tuổi mà ung thư vú thường gặp.
Sinh con muộn: phụ nữ sinh con so muộn(sau 30 tuổi) có nguy cơ nhiều hơn người sinh con sớm.
Mật độ của vú: trên phim chụp nhũ ảnh cho thấy dầy đặc thuỳ và ống dẫn sữa nhưng rất cân đối. Ung thư vú gần như luôn phát triển từ mô thuỳ hay mô ống dẫn (không phải mô mỡ) . Điều đó cho thấy tại sao ung thư vú thường xảy ra ở những vú có nhiều mô tuyến và ống dẫn hơn những vú có nhiều mô mỡ. Hơn nữa, với những vú mật độ dày, bác sĩ khó thấy những vùng bất thường trên phim chụp nhũ ảnh hơn.
Xạ trị: nữ < 30 tuổi, vú tiếp xúc tia xạ trong khi xạ trị, đặc biệt là đã điều trị bệnh Hodgkin’s bằng tia xạ.
Rượu : vài nghiên cứu cho thấy, phụ nữ uống rượu sẽ tăng nguy cơ ung thư vú .
Phần lớn phụ nữ bị ung thư vú mà không có những yếu tố nguy cơ trên, ngoại trừ nguy cơ xuất hiện theo sự gia tăng tuổi tác. Các nhà khoa học đang hướng đến những nghiên cứu về nguyên nhân gây ung thư vú để hiểu nhiều hơn về yếu tố nguy cơ và cách phòng ngừa bệnh này.
Làm sao phát hiện ung thư vú ?
Người phụ nữ nên cho bác sĩ biết các yếu tố có thể làm tăng khả năng bệnh ung thư vú. Những người có nguy cơ cao, dù ở lứa tuổi nào, nên tham vấn bác sĩ, nên khám vú khi nào và làm như thế nào để được kiểm tra ung thư vú. Biện pháp sàng lọc làm giảm nguy cơ tử vong do bệnh .
Người phụ nữ có thể góp phần chủ động phát hiện bệnh sớm bằng cách chụp nhũ ảnh và khám vú theo lịch một cách đều đặn. Hoặc có thể tự khám vú.
Dấu hiệu của ung thư vú ?
Ung thư vú giai đoạn sớm thường không gây đau. Thực tế, khi ung thư vú phát triển lần đầu, có thể không dấu hiệu nào cả. Nhưng khi ung thư tăng trưởng, có thể gây những thay đổi mà người phụ nữ nên để ý :
Một cục hay chỗ dày lên ở trong hay gần vú hay ở vùng nách
Thay đổi kích thước hay hình dáng vú ;
Núm vú rỉ dịch hay đau, hay bị kéo ngược vào vú ;
Vú gợn lên hay lõm vào (da vú trông giống như quả cam).
Thay đổi da vú, có quầng, hay núm vú sưng, đỏ, nóng, có vảy.
Các bà, các cô nên gặp bác sĩ ngay nếu có một trong những triệu chứng trên. Thường không phải là ung thư, nhưng quan trọng để bác sĩ kiểm tra thì mọi vấn đề sẽ được chẩn đoán, điều trị sớm và như vậy mới an tâm.
Chẩn đoán ung thư vú như thế nào ?
Để tìm được nguyên nhân của bất kì dấu hiệu hay triệu chứng nào, đòi hỏi bác sĩ phải khám và tìm hiểu tiền sử bản thân, gia đình của người bệnh cẩn thận. Ngoài ra, bác sĩ có thể làm thêm các xét nghiệm sau :
Khám vú : bác sĩ có thể giải thích cục u bằng cách sờ nắn cục u và mô xung quanh nó cẩn thận. U lành thường cảm giác khác u ác. Bác sĩ kiểm tra kích thước và cấu tạo u và xác định xem nó có di chuyển dễ dàng không .
Chụp nhũ ảnh : chụp x quang vú có thể có được những thông tin quan trọng về cục u vú .
Siêu âm : sử dụng sóng âm tần số cao, qua siêu âm biết được u nang chứa dịch (không phải ung thư) hay là khối đặc (có thể ung thư mà cũng có thể không là ung thư). Siêu âm được sử dụng cùng lúc với chụp nhũ ảnh.
Dựa trên những kiểm tra này, bác sĩ có thể quyết định không cần làm thêm xét nghiệm và không cần điều trị. Như thế, bác sĩ có thể cần phải theo dõi bệnh nhân thường xuyên để phát hiện những thay đổi .
Sinh thiết
Để chẩn đoán thường cần phải lấy dịch hay mô tuyến vú. Bác sĩ của bạn sẽ giới thiệu bạn đến những bác sĩ ngoại khoa hay những chuyên gia có kinh nghiệm về bệnh vú . Và họ có thể thực hiện :
Chọc hút bằng kim nhỏ : một kim nhỏ mảnh được dùng để lấy dịch hay tế bào từ u, nếu dịch trong, có thể không cần thiết kiểm tra lại bằng kính hiển vi .
Sinh thiết bằng kim : sử dụng kĩ thuật đặc biệt, mô được lấy bằng một kim từ khối u nghi ngờ trên chụp nhũ ảnh.
Sinh thiết bằng phẫu thuật: Với một đường rạch da, bác sĩ sẽ lấy ra ngoài một miếng mô của u hay vùng nghi ngờ. Với sinh thiết cắt bỏ, bác sĩ lấy u hay vùng nghi ngờ và một phần mô lành xung quanh. Sau đó bác sĩ giải phẫu bệnh kiểm tra mẫu mô dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư .
Ung thư vú ( phần 2)
Những câu hỏi mà người bệnh thường đặt ra cho bác sĩ ?
Khi một bệnh nhân cần phải sinh thiết, người bệnh có thể hỏi bác sĩ những vấn đề :
Tôi sẽ được sinh thiết cách nào ? Tại sao ?
Sinh thiết mất bao lâu ? Tôi có cảm giác không ? Nó gây đau không?
Tôi biết kết quả ngay không ?
Nếu tôi bị ung thư , ai sẽ nói với tôi về việc điều trị này? Khi nào ?
Nếu tìm thấy ung thư ?
Phần lớn ung thư vú là carcinoma ống dẫn sữa. Nó bắt đầu từ bề mặt của các ống dẫn. Loại khác bắt đầu từ các tiểu thùy gọi là carcinoma tiểu thùy. Khi tế bào ung thư được tìm thấy bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ cho bạn biết loại nào và có xâm nhiễm hay chưa ( xâm lấn mô xung quanh )
Ung thư vú không có nghĩa là một bệnh , là một thuật ngữ để mô tả những loại ung thư khác nhau xảy ra ở vú. Mỗi loại có cách ứng phó và tiên lượng khác nhau. Thường phân loại dựa trên mô học qua sinh thiết như sau : carcinoma ống dẫn sữa xâm nhiễm, carcinoma tiểu thùy xâm nhiễm, carcinoma ống dẫn sữa tại chỗ, carcinoma tiểu thùy, carcinoma dạng viêm, bệnh Paget’s . Còn những loại u hiếm khác ở vú như sarcomma mạch máu, ung thư tế bào vảy và u bạch huyết .
Carcinoma ống dẫn sữa xâm nhiễm:bắt đầu từ những tế bào tạo nên ống dẫn sữa ở vú. Đây là loại thường gặp nhất khoảng 65-85%. Trên phim chụp nhũ ảnh, carcinoma ống dẫn sữa thường được thấy như một khối bất thường hay là một nhóm những đốm trắng nhỏ gọi là lắng đọng có thể xi hay phối hợp cả hai. Nó có thể xuất hiện như một u trên vú. Khám lâm sàng khối u này có cảm giác cứng và chắc hơn những u lành tính ở vú
Carcinoma tiểu thùy xâm nhiễm : chiếm 5-10% ung thư vú. Loại này xuất hiện tương tự như carcinoma ống dẫn sữa trên nhũ ảnh, khám lâm sàng u thường không cứng và phần mô vú dày lên không rõ. Carcinoma tiểu thùy có thể xảy ra nhiều vị trí trong một vú ( nhiều tâm ) hay cả hai vú cùng lúc.
Carcinoma ống dẫn sữa tại chỗ ( DCIS ): Là một dạng ung thư tiền xâm lấn thường phối hợp vơí ung thư xâm lấn. Nếu nó xảy ra mà không có ung thư xâm lấn thì thường không có u. Trên nhũ ảnh, có thể có dấu hiệu những đốm có thể canxi hóa. Hơn 1/3 ca DCIS thường có nhiều hơn một u ở vú. Nếu DCIS chỉ được điều trị với sinh thiết, khoảng 40% cuối cùng phát triển thành ung thư xâm lấn trong tương lai.
Carcinoma tiểu thùy tại chỗ ( LCIS ): thường gặp phải một cách ngẫu nhiên khi sinh thiết vú. Nó không triệu chứng và không có dấu hiệu đặc trưng trên nhũ đồ. 40-90% trường hợp xảy ra ở nhiều vị trí trên một vú. 50% trường hợp xảy ra vú kế bên. Nguy cơ phát triển thành ung thư xâm lấn khoảng 1% mỗi năm. Số lượng lớn người ( 38% ) bị LCIS có thể không phát triển thành ung thư xâm lấn cho đến hơn 20 năm, sau chẩn đoán ban đầu.
Carcinoma dạng viêm : là một nhánh nhỏ của carcinoma ống dẫn sữa và tên gọi do triệu chứng lâm sàng điển hình của nó. Vú sưng, nóng, đỏ, đau,và da vú trở nên dày hơn có vẻ như bị nhiễm trùng. Có những dấu hiệu này là do ung thư phát triển nhanh làm cản trở lưu thông bạch huyết trong vú, gây ra sưng và viêm. Ung thư thường lan đến hạch bạch huyết vào thơì điểm chẩn đoán trong 90% ca. Tiên lượng rất xấu và may mắn là không thường gặp.
Bệnh Paget’s : khoảng 1-4%. Nó xảy ra điển hình là núm vú khô và nứt nẻ. Nó có thể bị lầm lẫn với bệnh da lành tính nếu không có mối nghi ngờ cao.
Cystosarcoma phyllodes : là một u chắc giống như là u sợi tuyến lành tính, đặc trưng của bệnh này là không lan đến hạch bạch huyết mà di căn đến phần khác của cơ thể qua dòng máu.
Những xét nghiệm chuyên biệt từ mẫu mô giúp bác sĩ biết nhiều hơn về ung thư. Ví dụ, các xét nghiệm thụ thể nội tiết tố ( xét nghiệm thụ thể estrogen và protesterone ) giúp xác định nội tiết tố có vai trò giúp ung thư phát triển hay không. Nếu xét nghiệm dương tính, thì điều trị ung thư bằng nội tiết tố là cần thiết. Phương pháp này lấy đi những tế bào ung thư do estrogen.
Nhiều xét nghiệm có thể được làm để bác sĩ dự đoán ung thư phát triển hay không . Ví dụ, bác sĩ có thể yêu cầu làm thêm : chụp x quang và các xét nghiệm . Đôi khi mẩu mô vú bị ung thư được kiểm tra gen ( HER-2 ), gen này là yếu tố nguy cơ cao cho ung thư tái phát. Bác sĩ cũng đề nghị khám xương, gan, phổi. Bởi vì ung thư có thể lan đến những cơ quan này.
Những câu hỏi đặt ra cho bác sĩ :
- Tại sao tôi cần điều trị toàn thân ?
- Nếu tôi điều trị nội tiêt tố, cái nào tốt cho tôi hơn.Thuốc hay phẫu thuậtlấy buồng trứng ?
- Tôi sẽ sử dụng loại thuốc nào ? chúng tác dụng như thế nào ?
- Có những tác dụng phụ không ? tôi phải làm gì với những tác dụng phụ đó?
- Điều trị kéo dài bao lâu ?
Kế hoạch điều trị
Nhiều bệnh nhân ung thư vú muốn chủ động trong quyết định chăm sóc sức khỏe. Họ tìm hiểu tất cả những gì có thể được về bệnh và sự lựa chọn điều trị của họ. Tuy nhiên, người bệnh thường bị sốc và căng thẳng sau khi được chẩn đoán ung thư vú. Điều đó làm cho người bệnh không thể tập trung suy nghĩ về những điều muốn thắc mắc với bác sĩ. Tốt nhất là liệt kê tất cả những câu hỏi trong lần khám sau.
Để nhớ những gì bác sĩ nói, người bệnh có thể ghi chú hay ghi âm. Người bệnh lúc nào cũng muốn có người thân hay bạn bè khi nói chuyện với bác sĩ, họ có thể tham gia thảo luận hay ghi chú hay chỉ lắng nghe.
Bác sĩ có thể giới thiệu người bệnh đến những chuyên gia về điều trị ung thư. Thường điều trị sẽ bắt đầu trong vòng một vài tuần sau khi được chẩn đoán. Sẽ có khoảng thời gian để bệnh nhân thảo luận với bác sĩ về lưạ chọn điều trị, tham khảo những ý kiến khác và chuẩn bị tâm lý bản thân và người thân của họ.
Tham khảo ý kiến gì ?
Trước khi bắt đầu điều trị , bệnh nhân muốn được góp ý về chẩn đoán và kế hoạch điều trị. Một vài công ty bảo hiểm yêu cầu ý kiến hội chẩn; còn lại có thể bỏ qua nếu bệnh nhân yêu cầu. Trong hầu hết trường hợp, thời gian chậm trễ từ sau khi thực hiện sinh thiết đến điều trị ( 3 hay 4 tuần ) không làm ảnh hưởng tác dụng của điều trị. Có nhiều cách để xin thêm ý kiến : bác sĩ của bệnh nhân có thể giới thiệu những chuyên gia điều trị ung thư vú như bác sĩ ngoại khoa, bác sĩ ung thư, bác sĩ ung thư chuyên xạ trị, bác sĩ phẫu thuật tạo hình; trung tâm ung thư hay trung tâm chuyên về ung thư vú, các bác sĩ thường làm việc với nhau thành một nhóm.
Những phương pháp điều trị ung thư ?
Ung thư vú có thể điều trị tại chỗ hay toàn thân hoặc kết hợp cả hai.
Điều trị tại chỗ : là lấy hay phá hủy ung thư trong một vùng khu trú như phẫu thuật và xạ trị. Thường sử dụng điều trị bệnh ở vú. Khi ung thư vú đã lan xa, điều trị tại chỗ được dùng để kiểm soát những vùng di căn đó như phổi hay xương.
Điều trị toàn thân : sử dụng để phá hủy hay kiểm soát ung thư khắp cơ thể, như hóa trị, nội tiết tố, sinh học trị liệu. Một vài bệnh nhân được điều trị toàn thân để làm nhỏ khối u lại trước khi điều trị tại chỗ. Số khác điều trị toàn thân dành cho điều trị ung thư đã di căn hay phòng ngừa ung thư tái phát.
Phẫu thuật
Phẫu thuật dùng phổ biến trong điều trị ung thư vú. Có nhiều loại phẫu thuật. Bác sĩ có thể giải thích mỗi loại phẫu thuật, thảo luận và so sánh lợi ích và nguy cơ, và mô tả ảnh hưởng của phẫu thuật đến hình dáng bệnh nhân .
Phẫu thuật tối thiểu hay phẫu thuật bảo tồn: đây là phẫu thuật lấy đi mô ung thư chứ không lấy vú. Cắt bỏ u và một phần tuyến vú. Sau phẫu thuật này bệnh nhân được xạ trị để diệt những tế bào ung thư còn sót lại.
Cắt bỏ u : phẫu thuật lấy đi u và một phần mô bình thường xung quanh nó, thường vài hạch bạch huyết dưới nách cũng được lấy đi.
Cắt bỏ tuyến vú một phần : lấy u và phần lớn mô lành xung. Thỉnh thoảng lấy thêm một phần cơ ngực phía dưới u và hạch bạch huyết vùng nách.
Cắt bỏ tuyến vú : phẫu thuật cắt bỏ vú, mô lấy càng nhiều càng tốt. Tái tạo vú có thể làm cùng lúc hay sau đó.
Cắt bỏ tuyến vú toàn phần : là phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú đơn giản, bác sĩ phẫu thuật lấy toàn bộ vú và một vài hạch bạch huyết dưới nách.
Cắt bỏ tuyến vú tận gốc bổ sung : bác sĩ phẫu thuật sẽ lấy toàn bộ vú, hạch lympho và cơ ngực.
Cắt bỏ tuyến vú tận gốc : còn gọi là phẫu thuật Halsted, bác sĩ phẫu thuật lấy vú, hai cơ ngực, tất cả hạch bạch huyết, một phần mỡ và da. Ngày nay ít sử dụng phương pháp này. Một số ít trường hợp phẫu thuật này được đề nghị khi ung thư lan đến cơ ngực.
Khảo sát hạch bạch huyết vùng nách : đôi khi hạch bạch huyết vùng nách được lấy để xác định xem ung thư đã lan vào hệ bạch huyết hay chưa.
Tạo hình vú, thường được lựa chọn sau phẫu thuật cắt bỏ vú. Bệnh nhân quan tâm phẫu thuật này nên thảo luận với bác sĩ phẫu thuật tạo hình trước khi làm phẫu thuật cắt bỏ.
Đây là những câu hỏi bệnh nhân thường hỏi bác sĩ trước khi phẫu thuật:
- Tôi có thể quan tâm loại phẫu thuật nào ? có phải phẫu thuật bảo tồn là lựa chọn cho tôi ? Tôi nên làm phẫu thuật nào ? Phẫu thuật có nguy cơ gì ?
- Tôi cần gửi máu của tôi phòng khi tôi cần truyền máu ?
- Có phải tôi cần được lấy hạch bạch huyết ? Bao nhiêu ? Tại sao ? Tôi cần phòng ngừa gì khi hạch bạch huyết bị lấy đi ?
- Sau phẫu thuật tôi có cảm giác như thế nào ?
- Tôi cần phải học những gì để tự chăm sóc hay chăm sóc vết mổ khi tôi trở về nhà ?
- Vết sẹo sẽ ở đâu và trông như thế nào ?
- Nếu tôi quyết định làm phẫu thuật tạo hình, làm như thế nào và khi nào ? Bác sĩ có thể giới thiệu một bác sĩ phẫu thuật tạo hình ?
- Tôi sẽ phải thực hiện những bài luyện tập đặc biệt gì?
- Khi nào tôi có thể trở về hoạt động bình thường ?
- Tôi có thể nói chuyện với những người đã trải qua phẫu thuậtgiống như vầy không?
Xạ trị
Xạ trị là dùng tia xạ năng lượng cao diệt tế bào ung thư . Tia xạ có thể tác động trực tiếp vú qua 1 máy ( xạ trị ngoài ). Chất phóng xạ được đặt trong 1 ống nhựa và đặt trực tiếp vào vú (xạ trị trong). Một số bệnh nhân điều trị cả hai cách.
- Xạ trị ngoài : bệnh nhân đến bệnh viện hay dưỡng đường, thường là 5 ngày/tuần trong vài tuần.
- Xạ trị trong : bệnh nhân nhập viện, chất phóng xạ được cấy vào cơ thể trong vài ngày và được lấy ra trước khi bệnh nhân trở về nhà.
Thỉnh thoảng, tùy vào kích thước u và những yếu tố khác, xạ trị được sử dụng sau phẫu thuật, đặc biệt là phẫu thuật bảo tồn. Chất phóng xạ tiêu diệt những tế bào ung thư còn sót lại.
Trước khi phẫu thuật, xạ trị hay với hóa trị hay nội tiết tố được sử dụng để phá hủy tế bào ung thư hay làm nhỏ u. Phương pháp này thường áp dụng những u lớn và không dễ lấy bằng phẫu thuật
Lựa chọn điều trị
Bệnh nhân ung thư vú bây giờ có nhiều sự lựa chọn trong điều trị . Nhiều phụ nữ cố gắng tìm hiểu về bệnh và việc lựa chọn điều trị vì vậy họ có vai trò trong việc quyết định hướng chăm sóc sức khoẻ của mình. Người bệnh có nhiều câu hỏi và sự quan tâm về lựa chọn điều trị.
Bác sĩ là người thích hợp nhất để giải đáp : sự lựa chọn điều trị nào và những thành công nào có thể đạt được . Hầu hết bệnh nhân sau điều trị họ trông như thế nào và có thay đổi hoạt động hằng ngày không . Bệnh nhân không cần phải hỏi và hiểu hết những thắc mắc trong một lúc, mà có thể hỏi bác sĩ những vấn đề chưa rõ và thông tin cần biết thêm.
Bệnh nhân có thể nói với bác sĩ về những thử nghiệm lâm sàng mới, những phương pháp điều trị mới.
Sự lựa chọn của bệnh nhân phụ thuộc vào một số yếu tố : tuổi, tình trạng mãn kinh, sức khỏe, kích thước, vị trí u, giai đoạn ung thư , kết quả cận lâm sàng, và kích thước của vú. Tính chất tế bào ung thư ( như có phụ thuộc nội tiêt tố tăng trưởng hay không ) cũng được xem xét. Quan trọng nhất là giai đoạn ung thư. Phân chia giai đoạn dựa trên kích thước u và ung thư đã di căn hay chưa.
( Còn Tiếp...)
“ Kết quả chụp nhũ ảnh của bạn nghi ngờ ung thư vú “
“ Kết quả sinh thiết của bạn là ung thư vú “
Đây là những từ kinh khủng nhất khi người phụ nữ nghe bác sĩ nói mình bị ung thư vú, người bệnh bắt ấu hoang mang, lo lắng : phẫu thuật, chết chóc, thay đổi hình thể, mất bản năng giới tính. Việc giải quyết những lo âu này thuận lợi hơn bằng những thông tin và kiến thức về ung thư vú. Vì vậy, người phụ nữ có thể đưa ra những quyết định tốt nhất cho sức khoẻ của mình. Tốt nhất, những vấn đề này nên được thảo luận với bác sĩ của bạn đối với từng trường hợp cụ thể. Những thông tin sau đây nhằm giúp bệnh nhân và gia đình họ vượt qua được khó khăn lớn của bệnh ung thư vú .
Ngoài ung thư da, ung thư vú và ung thư cổ tử cung là những ung thư thường gặp nhất ở nữ giới. Ung thư vú xếp hàng thứ hai sau ung thư cổ tử cung. Ung thư vú ở nam giới chiếm tỷ lệ 0,6%. Mặc dù bài này được viết chủ yếu cho nữ, nhưng những thông tin về triệu chứng, chẩn đoán, điều trị, và cách sống cũng được áp dụng cho nam. Tuy nhiên, các chuyên gia không khuyến cáo việc sàng lọc thường xuyên cho nam giới.
Các nghiên cứu mang lại kết quả tốt trong việc phòng ngừa và điều trị ung thư vú tốt hơn, giảm tử vong và tăng chất lượng cuộc sống. Qua nghiên cứu cho thấy sự hiểu biết về bệnh ung thư vú ngày càng gia tăng. Các nhà khoa học vẫn tiếp tục tìm hiểu thêm về nguyên nhân gây ung thư vú , nghiên cứu những phương pháp mới để phòng ngừa , phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh này.
Cấu tạo vú như thế nào ?
Ung thư vú không có ý nghĩa là một bệnh, mà là một từ được dùng để chỉ những bệnh ung thư khác nhau ở vú. Mỗi loại ung thư vú xử trí và tiên lượng khác nhau. Trước khi mô tả các loại ung thư vú và phương pháp điều trị, những thông tin sau đây nên tham khảo.
Vú là một cơ quan có chức năng tạo sữa. Vú chứa những tuyến (ở các thuỳ) tạo ra sữa, và những ống (ống dẫn sữa ) dẫn sữa từ các tuyến đến núm vú. Đa số ung thư vú bắt đầu từ ống dẫn sữa hay tuyến và tên ung thư phụ thuộc vào vị trí của nguồn gốc ung thư (ví dụ carcinoma ống dẫn, carcinoma tuyến của vú) . Các tuyến và ống dẫn được nâng đỡ bởi các mô mỡ và dây chằng xung quanh.
Có nhiều mạch máu và mạch bạch huyết trong vú. Mạch bạch huyết là những sợi mỏng nhỏ giống như mạch máu, chúng không chứa máu nhưng hấp thu và chứa dịch mô. Dịch này cuối cùng được đưa vào dòng máu. Dịch mô vú được những kênh bạch huyết dẫn lưu hạch bạch huyết ở nách. Hạch bạch huyết là những tuyến nhỏ mà sợi bạch huyết đi xuyên qua, nó lọc dịch bạch huyết và có thể ngăn lại sự lan rộng tế bào ung thư hay vi khuẩn có trong dịch bạch huyết, ngăn không cho tế bào ung thư hay vi trùng đi xa hơn. Những hạch bạch huyết này không hoàn toàn ngăn chặn những tế bào ung thư đã thấm qua mạch bạch huyết và từ đó nó có thể lan rộng đến những phần khác của cơ thể. Một khi tế bào ung thư vào mạch máu hay bạch huyết thì nó có khả năng di căn đến bất kì nơi nào trong cơ thể. Ung thư vú thường di căn đến : xương, phổi, gan và não.
Ung thư vú còn được phân loại xâm lấn hay không – xâm lấn. Thể xâm lấn, ám chỉ khả năng ung thư lan rộng, nó cơ thể phát triển trực tiếp trong những phần khác của cơ thể hay du hành trong máu , dẫn lưu dịch bạch huyết đến những vùng này. Thể không xâm lấn (ung thư tại chỗ) là ung thư được xác định bằng tiêu chuẩn vi mô khi không có sự di căn.
Diễn tiến ung thư ?
Ung thư là nhóm bệnh mà bắt nguồn từ tế bào, là đơn vị sống của cơ thể . Để hiểu được ung thư, cần biết điều gì xảy ra khi tế bào bình thường trở nên ung thư hoá.
Cơ thể được cấu tạo bởi nhiều loại tế bào . Bình thường , tế bào phát triển và phân chia khi cơ thể có nhu cầu. Trình tự này giúp cơ thể khoẻ mạnh. Tuy nhiên, thỉnh thoảng tế bào vẫn tiếp tục phân chia mà cơ thể không có nhu cầu tế bào mới. Chúng tạo nên một khối mô gọi là u hay bướu . Bướu có thể lành tính hay ác tính.
Bướu lành không phải ung thư. Chúng thường được cắt bỏ, và hầu như không bị tái phát trở lại. Các tế bào của bướu lành không lan rộng. Quan trọng nhất, bướu vú lành thì không đe doạ cuộc sống.
Bướu ác tính là ung thư. Các tế bào bướu thì bất thường, chúng phân chia không có kiểm soát hay trật tự, và có thể xâm lấn hay gây tổn thương mô hay cơ quan kế cận. Hơn nữa, tế bào ung thư có thể rời khỏi bướu ác tính vào dòng máu hay hệ bạch huyết. Theo cách đó, chúng có thể lan rộng từ ung thư nguyên phát để tạo các bướu mới ở các cơ quan khác. Sự lan rộng được gọi là di căn.
Khi ung thư bắt đầu từ mô vú và lan rộng ra ngoài vú, tế bào ung thư thường được tìm thấy trong hạch bạch huyết ở nách. Nếu ung thư đã đến hạch bạch huyết nách có nghĩa là tế bào ung thư có thể lan khắp cơ thể - hạch bạch huyết khác và cơ quan khác như xương, gan, phổi. Khi ung thư lan từ vị trí ban đầu đến một phần khác của cơ thể, bướu mới có cùng loại tế bào bất thường và cùng tên với bướu nguyên phát. Ví dụ, ung thư vú di căn đến não, tế bào ung thư trong não thực chất là tế bào ung thư vú, bệnh là do ung thư vú di căn chứ không phải ung thư não.
Ai có nguy cơ bị ung thư vú ?
Nguyên nhân chính xác của ung thư vú chưa được biết. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư vú gia tăng ở những phụ nữ lớn tuổi, và thường hiếm khi gặp ở nữ dưới 35 tuổi. Bệnh hay xảy ra ở những phụ nữ trên 50 tuổi, nguy cơ càng cao ở nữ trên 60. Hơn nữa, ung thư vú xảy ra ở nữ da trắng nhiều hơn nữ Châu Phi và nữ Châu Á.
Nghiên cứu cho thấy những yếu tố sau làm tăng khả năng mắc ung thư vú :
* Tiền sử bị ung thư : những phụ nữ đã bị ung thư vú rồi thì nguy cơ mắc ung thư vú ở vú còn lại cao hơn người bình thường.
* Tiền sử gia đình: Một người phụ nữ có nguy cơ ung thư vú cao nếu mẹ, chị, con gái họ bị ung thư vú, đặc biệt nếu những người này mắc bệnh lúc tuổi còn trẻ.
* Rối loạn đã dược xác định: với chẩn đoán tăng sản không điển hình hay carcinoma tại chỗ làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú .
* Sự biến đổi di truyền: các gen trong tế bào mang thông tin di truyền thừa hưởng từ cha mẹ.Yếu tố di truyền chiếm từ 5%-10% tất cả ung thư vú . Vài gen đột biến có liên quan đến ung thư vú phổ biến ở vài nhóm dân tộc.
Một số gen thay đổi ( như BRCA 1, BRCA 2,…) làm tăng nguy cơ ung thư vú . Trong những gia đình có nhiều người mắc ung thư vú, kiểm tra gen thỉnh thoảng cho thấy có sự thay đổi đặc biệt làm tăng nguy cơ ung thư vú . Bác sĩ có thể đề nghị phương pháp nhằm phòng ngừa hay kéo dài sự sống cho bệnh nhân bị ung thư vú, phát hiện sớm ung thư vú ở những phụ nữ có đột biến gen. Những phụ nữ có gen đột biến liên quan ung thư vú hay đã bị ung thư vú một bên thì tăng nguy cơ mắc ung thư vú ở bên còn lại, ung thư buồng trứng, và có thể những mắc ung thư khác. Nam giới cũng vậy.
Nhiều xét nghiệm có thể phát hiện những gen bị biến đổi. Những xét nghiệm này thường làm ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư.
Những yếu tố phối hợp làm tăng nguy cơ ung thư vú :
Estrogen. Nhiều chứng cứ gợi ý thời gian cơ thể chịu sự tác dụng estrogen càng kéo dài (estrogen do cơ thể tạo ra , hay do thuốc, hay được phóng thích từ một nốt của cơ thể) thì dễ bị ung thư vú .Ví dụ, nguy cơ bệnh tăng thêm phần nào ở những người kinh nguyệt bắt đầu sớm( trước 12 tuổi), mãn kinh muộn( sau 55 tuổi), không có con, hay trị liệu bằng hormon trong thời gian dài. DES (diethylstilbestrol) là một dạng estrogen tổng hợp được sử dụng khoảng năm 1940-1971. Thai phụ thường sử dụng DES trong suốt thai kì để phòng ngừa biến chứng được xác định có nguy cơ ung thư vú khá cao. Nguy cơ này không hiện diện ở con gái họ, đã tiếp xúc với DES trước khi chào đời. Tuy nhiên, vẫn cần chú ý khi những bé gái này đến khoảng tuổi mà ung thư vú thường gặp.
Sinh con muộn: phụ nữ sinh con so muộn(sau 30 tuổi) có nguy cơ nhiều hơn người sinh con sớm.
Mật độ của vú: trên phim chụp nhũ ảnh cho thấy dầy đặc thuỳ và ống dẫn sữa nhưng rất cân đối. Ung thư vú gần như luôn phát triển từ mô thuỳ hay mô ống dẫn (không phải mô mỡ) . Điều đó cho thấy tại sao ung thư vú thường xảy ra ở những vú có nhiều mô tuyến và ống dẫn hơn những vú có nhiều mô mỡ. Hơn nữa, với những vú mật độ dày, bác sĩ khó thấy những vùng bất thường trên phim chụp nhũ ảnh hơn.
Xạ trị: nữ < 30 tuổi, vú tiếp xúc tia xạ trong khi xạ trị, đặc biệt là đã điều trị bệnh Hodgkin’s bằng tia xạ.
Rượu : vài nghiên cứu cho thấy, phụ nữ uống rượu sẽ tăng nguy cơ ung thư vú .
Phần lớn phụ nữ bị ung thư vú mà không có những yếu tố nguy cơ trên, ngoại trừ nguy cơ xuất hiện theo sự gia tăng tuổi tác. Các nhà khoa học đang hướng đến những nghiên cứu về nguyên nhân gây ung thư vú để hiểu nhiều hơn về yếu tố nguy cơ và cách phòng ngừa bệnh này.
Làm sao phát hiện ung thư vú ?
Người phụ nữ nên cho bác sĩ biết các yếu tố có thể làm tăng khả năng bệnh ung thư vú. Những người có nguy cơ cao, dù ở lứa tuổi nào, nên tham vấn bác sĩ, nên khám vú khi nào và làm như thế nào để được kiểm tra ung thư vú. Biện pháp sàng lọc làm giảm nguy cơ tử vong do bệnh .
Người phụ nữ có thể góp phần chủ động phát hiện bệnh sớm bằng cách chụp nhũ ảnh và khám vú theo lịch một cách đều đặn. Hoặc có thể tự khám vú.
Dấu hiệu của ung thư vú ?
Ung thư vú giai đoạn sớm thường không gây đau. Thực tế, khi ung thư vú phát triển lần đầu, có thể không dấu hiệu nào cả. Nhưng khi ung thư tăng trưởng, có thể gây những thay đổi mà người phụ nữ nên để ý :
Một cục hay chỗ dày lên ở trong hay gần vú hay ở vùng nách
Thay đổi kích thước hay hình dáng vú ;
Núm vú rỉ dịch hay đau, hay bị kéo ngược vào vú ;
Vú gợn lên hay lõm vào (da vú trông giống như quả cam).
Thay đổi da vú, có quầng, hay núm vú sưng, đỏ, nóng, có vảy.
Các bà, các cô nên gặp bác sĩ ngay nếu có một trong những triệu chứng trên. Thường không phải là ung thư, nhưng quan trọng để bác sĩ kiểm tra thì mọi vấn đề sẽ được chẩn đoán, điều trị sớm và như vậy mới an tâm.
Chẩn đoán ung thư vú như thế nào ?
Để tìm được nguyên nhân của bất kì dấu hiệu hay triệu chứng nào, đòi hỏi bác sĩ phải khám và tìm hiểu tiền sử bản thân, gia đình của người bệnh cẩn thận. Ngoài ra, bác sĩ có thể làm thêm các xét nghiệm sau :
Khám vú : bác sĩ có thể giải thích cục u bằng cách sờ nắn cục u và mô xung quanh nó cẩn thận. U lành thường cảm giác khác u ác. Bác sĩ kiểm tra kích thước và cấu tạo u và xác định xem nó có di chuyển dễ dàng không .
Chụp nhũ ảnh : chụp x quang vú có thể có được những thông tin quan trọng về cục u vú .
Siêu âm : sử dụng sóng âm tần số cao, qua siêu âm biết được u nang chứa dịch (không phải ung thư) hay là khối đặc (có thể ung thư mà cũng có thể không là ung thư). Siêu âm được sử dụng cùng lúc với chụp nhũ ảnh.
Dựa trên những kiểm tra này, bác sĩ có thể quyết định không cần làm thêm xét nghiệm và không cần điều trị. Như thế, bác sĩ có thể cần phải theo dõi bệnh nhân thường xuyên để phát hiện những thay đổi .
Sinh thiết
Để chẩn đoán thường cần phải lấy dịch hay mô tuyến vú. Bác sĩ của bạn sẽ giới thiệu bạn đến những bác sĩ ngoại khoa hay những chuyên gia có kinh nghiệm về bệnh vú . Và họ có thể thực hiện :
Chọc hút bằng kim nhỏ : một kim nhỏ mảnh được dùng để lấy dịch hay tế bào từ u, nếu dịch trong, có thể không cần thiết kiểm tra lại bằng kính hiển vi .
Sinh thiết bằng kim : sử dụng kĩ thuật đặc biệt, mô được lấy bằng một kim từ khối u nghi ngờ trên chụp nhũ ảnh.
Sinh thiết bằng phẫu thuật: Với một đường rạch da, bác sĩ sẽ lấy ra ngoài một miếng mô của u hay vùng nghi ngờ. Với sinh thiết cắt bỏ, bác sĩ lấy u hay vùng nghi ngờ và một phần mô lành xung quanh. Sau đó bác sĩ giải phẫu bệnh kiểm tra mẫu mô dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư .
Ung thư vú ( phần 2)
Những câu hỏi mà người bệnh thường đặt ra cho bác sĩ ?
Khi một bệnh nhân cần phải sinh thiết, người bệnh có thể hỏi bác sĩ những vấn đề :
Tôi sẽ được sinh thiết cách nào ? Tại sao ?
Sinh thiết mất bao lâu ? Tôi có cảm giác không ? Nó gây đau không?
Tôi biết kết quả ngay không ?
Nếu tôi bị ung thư , ai sẽ nói với tôi về việc điều trị này? Khi nào ?
Nếu tìm thấy ung thư ?
Phần lớn ung thư vú là carcinoma ống dẫn sữa. Nó bắt đầu từ bề mặt của các ống dẫn. Loại khác bắt đầu từ các tiểu thùy gọi là carcinoma tiểu thùy. Khi tế bào ung thư được tìm thấy bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ cho bạn biết loại nào và có xâm nhiễm hay chưa ( xâm lấn mô xung quanh )
Ung thư vú không có nghĩa là một bệnh , là một thuật ngữ để mô tả những loại ung thư khác nhau xảy ra ở vú. Mỗi loại có cách ứng phó và tiên lượng khác nhau. Thường phân loại dựa trên mô học qua sinh thiết như sau : carcinoma ống dẫn sữa xâm nhiễm, carcinoma tiểu thùy xâm nhiễm, carcinoma ống dẫn sữa tại chỗ, carcinoma tiểu thùy, carcinoma dạng viêm, bệnh Paget’s . Còn những loại u hiếm khác ở vú như sarcomma mạch máu, ung thư tế bào vảy và u bạch huyết .
Carcinoma ống dẫn sữa xâm nhiễm:bắt đầu từ những tế bào tạo nên ống dẫn sữa ở vú. Đây là loại thường gặp nhất khoảng 65-85%. Trên phim chụp nhũ ảnh, carcinoma ống dẫn sữa thường được thấy như một khối bất thường hay là một nhóm những đốm trắng nhỏ gọi là lắng đọng có thể xi hay phối hợp cả hai. Nó có thể xuất hiện như một u trên vú. Khám lâm sàng khối u này có cảm giác cứng và chắc hơn những u lành tính ở vú
Carcinoma tiểu thùy xâm nhiễm : chiếm 5-10% ung thư vú. Loại này xuất hiện tương tự như carcinoma ống dẫn sữa trên nhũ ảnh, khám lâm sàng u thường không cứng và phần mô vú dày lên không rõ. Carcinoma tiểu thùy có thể xảy ra nhiều vị trí trong một vú ( nhiều tâm ) hay cả hai vú cùng lúc.
Carcinoma ống dẫn sữa tại chỗ ( DCIS ): Là một dạng ung thư tiền xâm lấn thường phối hợp vơí ung thư xâm lấn. Nếu nó xảy ra mà không có ung thư xâm lấn thì thường không có u. Trên nhũ ảnh, có thể có dấu hiệu những đốm có thể canxi hóa. Hơn 1/3 ca DCIS thường có nhiều hơn một u ở vú. Nếu DCIS chỉ được điều trị với sinh thiết, khoảng 40% cuối cùng phát triển thành ung thư xâm lấn trong tương lai.
Carcinoma tiểu thùy tại chỗ ( LCIS ): thường gặp phải một cách ngẫu nhiên khi sinh thiết vú. Nó không triệu chứng và không có dấu hiệu đặc trưng trên nhũ đồ. 40-90% trường hợp xảy ra ở nhiều vị trí trên một vú. 50% trường hợp xảy ra vú kế bên. Nguy cơ phát triển thành ung thư xâm lấn khoảng 1% mỗi năm. Số lượng lớn người ( 38% ) bị LCIS có thể không phát triển thành ung thư xâm lấn cho đến hơn 20 năm, sau chẩn đoán ban đầu.
Carcinoma dạng viêm : là một nhánh nhỏ của carcinoma ống dẫn sữa và tên gọi do triệu chứng lâm sàng điển hình của nó. Vú sưng, nóng, đỏ, đau,và da vú trở nên dày hơn có vẻ như bị nhiễm trùng. Có những dấu hiệu này là do ung thư phát triển nhanh làm cản trở lưu thông bạch huyết trong vú, gây ra sưng và viêm. Ung thư thường lan đến hạch bạch huyết vào thơì điểm chẩn đoán trong 90% ca. Tiên lượng rất xấu và may mắn là không thường gặp.
Bệnh Paget’s : khoảng 1-4%. Nó xảy ra điển hình là núm vú khô và nứt nẻ. Nó có thể bị lầm lẫn với bệnh da lành tính nếu không có mối nghi ngờ cao.
Cystosarcoma phyllodes : là một u chắc giống như là u sợi tuyến lành tính, đặc trưng của bệnh này là không lan đến hạch bạch huyết mà di căn đến phần khác của cơ thể qua dòng máu.
Những xét nghiệm chuyên biệt từ mẫu mô giúp bác sĩ biết nhiều hơn về ung thư. Ví dụ, các xét nghiệm thụ thể nội tiết tố ( xét nghiệm thụ thể estrogen và protesterone ) giúp xác định nội tiết tố có vai trò giúp ung thư phát triển hay không. Nếu xét nghiệm dương tính, thì điều trị ung thư bằng nội tiết tố là cần thiết. Phương pháp này lấy đi những tế bào ung thư do estrogen.
Nhiều xét nghiệm có thể được làm để bác sĩ dự đoán ung thư phát triển hay không . Ví dụ, bác sĩ có thể yêu cầu làm thêm : chụp x quang và các xét nghiệm . Đôi khi mẩu mô vú bị ung thư được kiểm tra gen ( HER-2 ), gen này là yếu tố nguy cơ cao cho ung thư tái phát. Bác sĩ cũng đề nghị khám xương, gan, phổi. Bởi vì ung thư có thể lan đến những cơ quan này.
Những câu hỏi đặt ra cho bác sĩ :
- Tại sao tôi cần điều trị toàn thân ?
- Nếu tôi điều trị nội tiêt tố, cái nào tốt cho tôi hơn.Thuốc hay phẫu thuậtlấy buồng trứng ?
- Tôi sẽ sử dụng loại thuốc nào ? chúng tác dụng như thế nào ?
- Có những tác dụng phụ không ? tôi phải làm gì với những tác dụng phụ đó?
- Điều trị kéo dài bao lâu ?
Kế hoạch điều trị
Nhiều bệnh nhân ung thư vú muốn chủ động trong quyết định chăm sóc sức khỏe. Họ tìm hiểu tất cả những gì có thể được về bệnh và sự lựa chọn điều trị của họ. Tuy nhiên, người bệnh thường bị sốc và căng thẳng sau khi được chẩn đoán ung thư vú. Điều đó làm cho người bệnh không thể tập trung suy nghĩ về những điều muốn thắc mắc với bác sĩ. Tốt nhất là liệt kê tất cả những câu hỏi trong lần khám sau.
Để nhớ những gì bác sĩ nói, người bệnh có thể ghi chú hay ghi âm. Người bệnh lúc nào cũng muốn có người thân hay bạn bè khi nói chuyện với bác sĩ, họ có thể tham gia thảo luận hay ghi chú hay chỉ lắng nghe.
Bác sĩ có thể giới thiệu người bệnh đến những chuyên gia về điều trị ung thư. Thường điều trị sẽ bắt đầu trong vòng một vài tuần sau khi được chẩn đoán. Sẽ có khoảng thời gian để bệnh nhân thảo luận với bác sĩ về lưạ chọn điều trị, tham khảo những ý kiến khác và chuẩn bị tâm lý bản thân và người thân của họ.
Tham khảo ý kiến gì ?
Trước khi bắt đầu điều trị , bệnh nhân muốn được góp ý về chẩn đoán và kế hoạch điều trị. Một vài công ty bảo hiểm yêu cầu ý kiến hội chẩn; còn lại có thể bỏ qua nếu bệnh nhân yêu cầu. Trong hầu hết trường hợp, thời gian chậm trễ từ sau khi thực hiện sinh thiết đến điều trị ( 3 hay 4 tuần ) không làm ảnh hưởng tác dụng của điều trị. Có nhiều cách để xin thêm ý kiến : bác sĩ của bệnh nhân có thể giới thiệu những chuyên gia điều trị ung thư vú như bác sĩ ngoại khoa, bác sĩ ung thư, bác sĩ ung thư chuyên xạ trị, bác sĩ phẫu thuật tạo hình; trung tâm ung thư hay trung tâm chuyên về ung thư vú, các bác sĩ thường làm việc với nhau thành một nhóm.
Những phương pháp điều trị ung thư ?
Ung thư vú có thể điều trị tại chỗ hay toàn thân hoặc kết hợp cả hai.
Điều trị tại chỗ : là lấy hay phá hủy ung thư trong một vùng khu trú như phẫu thuật và xạ trị. Thường sử dụng điều trị bệnh ở vú. Khi ung thư vú đã lan xa, điều trị tại chỗ được dùng để kiểm soát những vùng di căn đó như phổi hay xương.
Điều trị toàn thân : sử dụng để phá hủy hay kiểm soát ung thư khắp cơ thể, như hóa trị, nội tiết tố, sinh học trị liệu. Một vài bệnh nhân được điều trị toàn thân để làm nhỏ khối u lại trước khi điều trị tại chỗ. Số khác điều trị toàn thân dành cho điều trị ung thư đã di căn hay phòng ngừa ung thư tái phát.
Phẫu thuật
Phẫu thuật dùng phổ biến trong điều trị ung thư vú. Có nhiều loại phẫu thuật. Bác sĩ có thể giải thích mỗi loại phẫu thuật, thảo luận và so sánh lợi ích và nguy cơ, và mô tả ảnh hưởng của phẫu thuật đến hình dáng bệnh nhân .
Phẫu thuật tối thiểu hay phẫu thuật bảo tồn: đây là phẫu thuật lấy đi mô ung thư chứ không lấy vú. Cắt bỏ u và một phần tuyến vú. Sau phẫu thuật này bệnh nhân được xạ trị để diệt những tế bào ung thư còn sót lại.
Cắt bỏ u : phẫu thuật lấy đi u và một phần mô bình thường xung quanh nó, thường vài hạch bạch huyết dưới nách cũng được lấy đi.
Cắt bỏ tuyến vú một phần : lấy u và phần lớn mô lành xung. Thỉnh thoảng lấy thêm một phần cơ ngực phía dưới u và hạch bạch huyết vùng nách.
Cắt bỏ tuyến vú : phẫu thuật cắt bỏ vú, mô lấy càng nhiều càng tốt. Tái tạo vú có thể làm cùng lúc hay sau đó.
Cắt bỏ tuyến vú toàn phần : là phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú đơn giản, bác sĩ phẫu thuật lấy toàn bộ vú và một vài hạch bạch huyết dưới nách.
Cắt bỏ tuyến vú tận gốc bổ sung : bác sĩ phẫu thuật sẽ lấy toàn bộ vú, hạch lympho và cơ ngực.
Cắt bỏ tuyến vú tận gốc : còn gọi là phẫu thuật Halsted, bác sĩ phẫu thuật lấy vú, hai cơ ngực, tất cả hạch bạch huyết, một phần mỡ và da. Ngày nay ít sử dụng phương pháp này. Một số ít trường hợp phẫu thuật này được đề nghị khi ung thư lan đến cơ ngực.
Khảo sát hạch bạch huyết vùng nách : đôi khi hạch bạch huyết vùng nách được lấy để xác định xem ung thư đã lan vào hệ bạch huyết hay chưa.
Tạo hình vú, thường được lựa chọn sau phẫu thuật cắt bỏ vú. Bệnh nhân quan tâm phẫu thuật này nên thảo luận với bác sĩ phẫu thuật tạo hình trước khi làm phẫu thuật cắt bỏ.
Đây là những câu hỏi bệnh nhân thường hỏi bác sĩ trước khi phẫu thuật:
- Tôi có thể quan tâm loại phẫu thuật nào ? có phải phẫu thuật bảo tồn là lựa chọn cho tôi ? Tôi nên làm phẫu thuật nào ? Phẫu thuật có nguy cơ gì ?
- Tôi cần gửi máu của tôi phòng khi tôi cần truyền máu ?
- Có phải tôi cần được lấy hạch bạch huyết ? Bao nhiêu ? Tại sao ? Tôi cần phòng ngừa gì khi hạch bạch huyết bị lấy đi ?
- Sau phẫu thuật tôi có cảm giác như thế nào ?
- Tôi cần phải học những gì để tự chăm sóc hay chăm sóc vết mổ khi tôi trở về nhà ?
- Vết sẹo sẽ ở đâu và trông như thế nào ?
- Nếu tôi quyết định làm phẫu thuật tạo hình, làm như thế nào và khi nào ? Bác sĩ có thể giới thiệu một bác sĩ phẫu thuật tạo hình ?
- Tôi sẽ phải thực hiện những bài luyện tập đặc biệt gì?
- Khi nào tôi có thể trở về hoạt động bình thường ?
- Tôi có thể nói chuyện với những người đã trải qua phẫu thuậtgiống như vầy không?
Xạ trị
Xạ trị là dùng tia xạ năng lượng cao diệt tế bào ung thư . Tia xạ có thể tác động trực tiếp vú qua 1 máy ( xạ trị ngoài ). Chất phóng xạ được đặt trong 1 ống nhựa và đặt trực tiếp vào vú (xạ trị trong). Một số bệnh nhân điều trị cả hai cách.
- Xạ trị ngoài : bệnh nhân đến bệnh viện hay dưỡng đường, thường là 5 ngày/tuần trong vài tuần.
- Xạ trị trong : bệnh nhân nhập viện, chất phóng xạ được cấy vào cơ thể trong vài ngày và được lấy ra trước khi bệnh nhân trở về nhà.
Thỉnh thoảng, tùy vào kích thước u và những yếu tố khác, xạ trị được sử dụng sau phẫu thuật, đặc biệt là phẫu thuật bảo tồn. Chất phóng xạ tiêu diệt những tế bào ung thư còn sót lại.
Trước khi phẫu thuật, xạ trị hay với hóa trị hay nội tiết tố được sử dụng để phá hủy tế bào ung thư hay làm nhỏ u. Phương pháp này thường áp dụng những u lớn và không dễ lấy bằng phẫu thuật
Lựa chọn điều trị
Bệnh nhân ung thư vú bây giờ có nhiều sự lựa chọn trong điều trị . Nhiều phụ nữ cố gắng tìm hiểu về bệnh và việc lựa chọn điều trị vì vậy họ có vai trò trong việc quyết định hướng chăm sóc sức khoẻ của mình. Người bệnh có nhiều câu hỏi và sự quan tâm về lựa chọn điều trị.
Bác sĩ là người thích hợp nhất để giải đáp : sự lựa chọn điều trị nào và những thành công nào có thể đạt được . Hầu hết bệnh nhân sau điều trị họ trông như thế nào và có thay đổi hoạt động hằng ngày không . Bệnh nhân không cần phải hỏi và hiểu hết những thắc mắc trong một lúc, mà có thể hỏi bác sĩ những vấn đề chưa rõ và thông tin cần biết thêm.
Bệnh nhân có thể nói với bác sĩ về những thử nghiệm lâm sàng mới, những phương pháp điều trị mới.
Sự lựa chọn của bệnh nhân phụ thuộc vào một số yếu tố : tuổi, tình trạng mãn kinh, sức khỏe, kích thước, vị trí u, giai đoạn ung thư , kết quả cận lâm sàng, và kích thước của vú. Tính chất tế bào ung thư ( như có phụ thuộc nội tiêt tố tăng trưởng hay không ) cũng được xem xét. Quan trọng nhất là giai đoạn ung thư. Phân chia giai đoạn dựa trên kích thước u và ung thư đã di căn hay chưa.
( Còn Tiếp...)